Tăng nợ công
PGS.TS Nguyễn Văn Ngãi, Phó Hiệu trưởng trường Đại học Hoa Sen cho rằng, việc nới nợ vay nước ngoài hay vay trong nước đều có nguy cơ làm tăng nợ công của quốc gia và với nợ nào nhà nước và người dân Việt Nam cũng đều phải trả.
Tuy nhiên, vay vốn nước ngoài luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn so với nguồn vốn vay trong nước như rủi ro về chênh lệch tỉ giá, đáng ngại hơn, tăng nợ nước ngoài còn liên quan tới việc xếp hạng, đánh giá uy tín, tín nhiệm về năng lực tài chính của Việt Nam đối với bạn bè quốc tế.
Do đó, PGS Nguyễn Văn Ngãi cho rằng, phương hướng tốt nhất vẫn nên hướng tới khai thác dòng vốn trong nước, cố gắng huy động tối đa nguồn lực từ các lĩnh vực trong nền kinh tế nội địa để đầu tư, phát triển, xây dựng kinh tế, hạ tầng.
Về quyết định cho phép tăng mức trần nguồn vốn vay nước ngoài từ 300.000 tỷ đồng lên 360.000 tỷ đồng, tức tăng 60.000 tỷ đồng so với dự kiến cho kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020, PGS.TS Nguyễn Văn Ngãi cho rằng chưa phải là con số đáng quan ngại.
Điểm ông quan tâm là việc chuyển hướng từ tăng cường vay trong nước sang vay nước ngoài, ông cho rằng đây mới là điểm cần chú ý, cho thấy, khả năng huy động vốn trong nước đang gặp khó khăn, điều này cũng đồng nghĩa với hoạt động của các lĩnh vực kinh tế nội địa đang gặp khó khăn.
Vị PGS phân tích, nguồn lực tích lũy trong nước được chia thành hai khu vực, đó là nguồn tiết kiệm công và nguồn tiết kiệm tư nhân.
Phân tích cụ thể hơn, PGS Nguyễn Văn Ngãi cho biết, về nguồn tiết kiệm công là bao gồm các khoản tiết kiệm được từ nguồn chi tiêu từ ngân sách của nhà nước. Nguồn tiết kiệm này hiện nay rất hạn chế, thậm chí là rất thấp do Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển, cần rất nhiều nguồn vốn để đầu tư xây dựng hạ tầng, thu nhập của người dân còn thấp, do đó, việc huy động vốn để xây dựng các dự án có quy mô nguồn vốn lớn bắt buộc phải dựa vào nguồn vốn vay từ nước ngoài.
Tuy nhiên, nếu sử dụng nguồn vốn hiệu quả, các dự án được đầu tư về lâu dài sẽ tạo ra những tác động lan tỏa, giúp nền kinh tế phát triển ổn định, làm tăng nguồn thu cho ngân sách.
“Như vậy, câu chuyện vẫn là việc sử dụng nguồn vốn đầu tư có hiệu quả hay không? Các dự án được đầu tư có tạo ra được nguồn vốn tích lũy để quay vòng tái đầu tư phát triển hay không?
Nhìn từ góc độ này thì thấy rõ ràng ngân sách đang gặp rất nhiều khó khăn, nguồn lực thu về hạn chế, sử dụng, đầu tư bằng vốn vay còn lãng phí, bất cập, gây thất thoát lớn.
Cá biệt nhiều dự án sử dụng vốn vay ODA có tổng đầu tư lớn đều đang trong tình trạng bị kéo dài thời gian, đội vốn, kìm hãm sự phát triển của đất nước.
Trong khi đó, chi tiêu thường xuyên hàng năm vẫn tăng cao, vẫn còn nhiều khoản chi lãng phí, bất hợp lý. Vì những tồn tại nêu trên mà nguồn tích lũy từ khu vực công gần như là không có”, ông Ngãi phân tích.
Đối với nguồn tiết kiệm, tích lũy từ khu vực tư nhân, vị PGS cho rằng khu vực này cũng đang gặp nhiều khó khăn.
“Quy mô doanh nghiệp trong nước còn nhỏ lẻ, manh mún, hoạt động còn gặp nhiều khó khăn.
Trong khi đó, báo cáo gần đây cũng cho thấy, tính đến thời điểm cuối 2017 Việt Nam có 560.417 doanh nghiệp đang hoạt động, số doanh nghiệp lập mới tăng 15% so với 2016, đạt 126.859 doanh nghiệp nhưng ở chiều ngược lại, cũng lại có tới 60.553 doanh nghiệp ngừng hoạt động, chiếm 50% so với số doanh nghiệp mới thành lập.
Một thực tế đáng báo động của khu vực doanh nghiệp tư nhân đã được chỉ ra là tỷ lệ doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ tăng cao liên tục từ năm 2012, và hiện nay lên đến hơn 48% tổng số doanh nghiệp. Trong 3 khu vực, các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có tỷ lệ thua lỗ cao hơn hẳn so với doanh nghiệp Nhà nước. Điều này cho thấy những khó khăn khu vực kinh tế tư nhân đang đối mặt không hề dễ dàng vượt qua.
Vì thực trạng trên nên sức khỏe cũng như nguồn tích lũy từ khu vực kinh tế tư nhân còn hạn chế, bấp bênh và nhiều rủi ro”, PGS Nguyễn Văn Ngãi phân tích.
Vị PGS cho rằng, khi hai nguồn tích lũy cơ bản trong nước không thể đáp ứng được thì bắt buộc phải tính đến việc đi vay. Ông nhấn mạnh, chúng ta không sợ nợ, không sợ đi vay nhưng phải có kế hoạch trả nợ và kế hoạch sử dụng nguồn vốn phải thật hiệu quả, tiết kiệm.
“Muốn có được nguồn vốn tích lũy, trả nợ thì không còn cách nào khác là doanh nghiệp trong nước phải làm ăn hiệu quả, dự án đầu tư phải mang lại tác động lan tỏa, tạo nguồn thu phục vụ nhu cầu tái đầu tư và trả nợ”, vị PGS nhấn mạnh.
Giải pháp nào?
Nói tới những nguyên nhân khiến việc sử dụng vốn vay chưa hiệu quả, PGS Nguyễn Văn Ngãi cho rằng đó là sự trậm trễ trong triển khai dự án, kéo dài tiến độ, lùi thời hạn đưa dự án vào hoạt động, khai thác. Ông cho rằng, việc kéo dài thời gian thực hiện, làm đội chi phí thực hiện dự án có một phần do cơ chế, chính sách thực hiện chưa phù hợp, dẫn tới những hệ lụy, hậu quả rất nghiêm trọng. Một trong những điểm nghẽn quan trọng là cơ chế thu hồi, bồi thường đất khi thực hiện GPMB của người dân. Vị PGS cho rằng, việc ép người dân, buộc người dân di dời mà chưa có cơ chế bồi thường phù hợp đã khiến người dân bức xúc, phản ứng khiến tiến độ dự án bị kéo dài, chi phí cho dự án đội lên, cuối cùng, thiệt hại là cả nhà nước, người dân và xã hội đều phải gánh chịu.
Nguyên nhân tiếp theo là do công tác giám sát, thẩm định từng dự án làm chưa tốt dẫn tới tình trạng sinh ra nhiều dự án chất lượng không cao, không hiệu quả nhưng vẫn đổ tiền vào đầu tư, hậu quả là hàng loạt dự án nghìn tỷ phải đắp chiếu, không hoạt động được, tạo gánh nặng nợ cho ngân sách quốc gia.
Nguyên nhân nữa chính là khâu giám sát trong khâu chi tiêu ngân sách tại các dự án. Đây là yêu cầu phải được đặt lên hàng đầu, vì kế hoạch chi không được kiểm soát chặt chẽ sẽ dẫn tới tình trạng thất thoát, lãng phí rất lớn.
Cuối cùng, ông cho rằng, cần phải thay đổi ngay nhận thức sai lầm rằng vay ODA là được cho không, mượn không nên tiêu xài vô tội vạ, lạm dụng, sử dụng không hiệu quả.
“Đó là vấn đề rất lớn cần phải tính toán rất kỹ”, ông Ngãi nhấn mạnh.
Nguồn: baodatviet.vn